Trang

Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2012

Blog - HÃY DÀNH THỜI GIAN - TRƯỜNG SA HOÀNG SA - KHÔNG THỂ CHẬM TRỄ



Tìm hiểu thêm trên các website chính thức, không thấy có trang nào hệ thống các bằng chứng, lý lẽ của Việt Nam trong vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa một cách bài bản, mạch lạc để học sinh và người dân (không phải là các học giả) có thể lấy đó làm vũ khí lý luận, đấu tranh mọi lúc mọi nơi.
Hai nữ sinh phổ thông, một Việt Nam, một Trung Quốc cùng tham gia chương trình Giao lưu văn hóa ở Mỹ (học 1 năm phổ thông và ở nhà cha mẹ nuôi là người Mỹ), được sắp xếp ở chung một nhà. Tất cả là ngẫu nhiên, có học sinh giao lưu văn hóa Việt Nam ở chung cùng một nhà với bạn Đức, Tây Ban Nha, Nhật, Thái Lan, Hàn Quốc…
Nhưng ngay những ngày đầu tiên, bạn học sinh TQ, trong một lần nói chuyện với cả nhà về đất nước mình, đã “tranh thủ” giới thiệu Hoàng Sa, Trường Sa là của TQ; bạn học sinh Việt Nam bị bất ngờ, chỉ biết phản ứng lại trong thế bị động rằng: “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”…
Sự việc không chỉ dừng lại ở đó. Đến cuối năm học, khi có dịp thuyết trình về một đề tài lịch sử trong lớp của mình, bạn TQ đăng ký ngay đề tài về Hoàng Sa, Trường Sa. Buổi thuyết trình được thầy giáo khen về mặt chuẩn bị tư liệu. Lời khen đó trở thành đề tài trong bữa cơm tối ở nhà cha mẹ nuôi người Mỹ. Bạn Việt Nam phản ứng bằng cách… bỏ cơm.
Trên đây là câu chuyện có thật, được một học sinh Việt Nam tại Mỹ kể lại.
Chúng ta không thể chê con cái chúng ta chậm, thực tế là người lớn chúng ta chậm, hay nói đúng ra là quá chậm.
Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa là vấn đề trọng đại của cả dân tộc và các thế hệ người Việt Nam, nhưng dường như chúng ta chưa có kế hoạch toàn diện một cách bài bản. Câu chuyện trên đây chỉ là một trong những điểm yếu. Nhìn lại toàn bộ chương trình lịch sử ở cả 3 cấp học, không có chương nào, bài nào nêu rõ quá trình làm chủ không thể chối cãi và quá trình khai thác Hoàng Sa, Trường Sa của ông cha ta; quá trình lấn chiếm có “lộ trình” của TQ… Hoàng Sa, Trường Sa có chăng chỉ là một vài câu chữ ở môn địa lý. Tìm hiểu thêm trên các website chính thức, không thấy có trang nào hệ thống các bằng chứng, lý lẽ của Việt Nam trong vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa một cách bài bản, mạch lạc để học sinh và người dân (không phải là các học giả) có thể lấy đó làm vũ khí lý luận, đấu tranh mọi lúc mọi nơi.
Hàng trăm ngàn du học sinh chúng ta hiện đang học tập và làm việc ở nhiều nơi trên thế giới. Lực lượng này có thể làm cho giới trẻ quốc tế, những nhà lãnh đạo tương lai của thế giới hiểu đúng và ủng hộ chúng ta trong vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa. Nhưng tài liệu không đầy đủ thì kêu gọi con cái chúng ta làm thế nào để chiến thắng?
Vấn đề là làm sao để câu chuyện “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam” không chỉ là khẩu hiệu mà đi kèm theo đó phải là những luận cứ thuyết phục ăn sâu vào máu thịt của từng người Việt Nam.
Cái trước mắt có thể làm được ngay là đưa các bài học lịch sử về Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa các cấp, từ tiểu học cho đến đại học; tùy theo trình độ hiểu biết của người học mà biên soạn nội dung phù hợp. Qua các website chính thức, trang bị ngay cho học sinh, nhất là du học sinh Việt Nam, những kiến thức từ cơ bản đến chuyên sâu, dịch ra nhiều thứ tiếng để du học sinh trên toàn thế giới có thể sử dụng làm tư liệu trong các bài thuyết trình, giới thiệu với bạn bè quốc tế về các bằng chứng của Việt Nam.
Kim Trí
Theo Thanh Niên
Đọc xong bài viết này tôi thấy giật mình nếu nó là sự thực.....sự nguy hiểm của nỗi sợ hãi vô thức vì sợ bị dính líu vào vấn đề nhạy cảm khiến nhiều người trong chúng ta mơ hồ về lý luận và cơ sở để bảo vệ phần lãnh thổ này của Tổ quốc. Cần phân biệt giữa nhng kẻ phá hoại và những người có lòng yêu nước muốn tuyên truyền và bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt nam.  bảo vệ không có nghĩa là phải đánh nhau, có khi chỉ cần đủ lý lẽ để không phản ứng một cách dại dột như bạn trẻ ở trong bài viết. Có lẽ nên bổ sung ngay vấn đề này vào chương trình học của học sinh để các cháu sau này khi đi ra nước ngoài không bị cứng họng trước những lý lẽ biết là vô lý mà lại không thể phản bác lại được để thuyết phục người nge. Những tình huống như trong bài viết có lẽ sẽ còn xảy ra nhiều..nên chăng một bài học về Hoàng sa, Trường sa..cách trả lời với những tình huống mà học sinh nước khác đưa ra. ............

Thứ Ba, 13 tháng 3, 2012

VIẾT CHO CON GÁI YÊU, TỪ TRƯỜNG SA!.


Mai Thanh Hải - Buổi chiều, con gái Thủy gọi từ Cam Ranh ra, kể: "Con mới lập bàn thờ ba Phương trong này. Ngoài Quảng Bình, bà vẫn giữ bàn thờ và sẽ ra mộ thắp hương cho ba sáng mai. Chú yên tâm nhé!".

Mình nghe xong, thừ người: Mới hôm nào, con gái còn tập tễnh trong Khoa Việt Nam học của Đại học Quảng Bình, nhiều thầy cô đọc hồ sơ, thấy ghi "Con gái Anh hùng - Liệt sĩ Trần Văn Phương, hy sinh ngày 14/3/1988, tại Trường Sa", chả hiểu gì nên cứ gặng hỏi, làm con cũng chả biết trả lời thế nào, bởi con sinh ra sau ngày Ba hy sinh. Thế mà bây giờ?.

Nhớ hồi con mới tốt nghiệp Đại học, cùng mẹ Hoa từ Quảng Bình vào Cam Ranh tham dự ngày Truyền thống của Đoàn Trường Sa, bác Long, chú Thắng, chú Thư trong Vùng và Lữ đã làm hết sức, cùng với chú Thanh - Giám đốc Sở Nội vụ Khánh Hòa đưa con vào làm việc trong UBND huyện Trường Sa và đến nay, con đã chuyển hệ, thành Sĩ quan chuyên nghiệp trong đội ngũ Lữ đoàn 146 Bảo vệ Trường Sa, như ba Phương ngày xưa.

Con giờ đã lớn, đã sát cánh bên người chồng cũng là Sĩ quan Lữ đoàn 162 và đã làm mẹ. Dẫu biết cái gia đình nho nhỏ của con, nằm ở ven đường Mỹ Ca, gần cổng Vùng 4 còn nhiều vất vả, gian lao và mỗi đêm, con cứ giật thột khi nghĩ đến mẹ Hoa cùng em gái, lần hồi kiếm sống trong đất Sài Gòn xa xôi, nhưng hãy cố lên con nhé - Bởi con là con gái của người Anh hùng.

Không vào được với con, nhưng cũng xin được thắp lên bàn thờ ba Phương cùng 63 đồng đội, bài viết cho em Miu, em Khoai từ 2008, trên vùng biển Cô Lin - Gạc Ma, thay cho nén hương, với những người lính đã ngã xuống, trong ngày 14/3/1988 khi bảo vệ chủ quyền Tổ quốc, ở địa đầu Trường Sa.
--------------------------------------------------------------------------------------------------------
   
Con gái yêu của Ba!.

Ba đang ở đảo Cô Lin - Nơi gọi là đảo chìm, nằm trên rặng san hô xa tít, thăm thẳm và xung quanh mây trời.

Nơi đây đúng 20 năm trước, 64 chú – bác bộ đội Hải quân đã hy sinh. Gọi là hy sinh theo đúng câu chữ trong văn phạm và những giấy tờ hay trong các buổi lễ nghĩa.

Chứ nói đúng ra, các chú, các bác ấy bị lính Trung Quốc giết chết bằng đại bác 100 ly, pháo phòng không 37 ly hạ nòng bắn thẳng, đạn tiểu liên AK bắn gần, lưỡi lê sắc nhọn, báng súng nặng trịch, câu liêm nhọn hoắt và đại đa số đều chìm xuống biển, chết mất xác.

Các chú, các bác ấy nằm xuống, cũng chỉ vì cái dải san hô xanh thẳm, xa hút ấy. Nhìn trên bản đồ trong google và dù có phóng to đến cỡ nào, thì con cũng khó mường tượng ra cái khoảng biển xanh đó.

Chắc con sẽ hỏi: “Chỗ đó là gì?”.

"Chỗ đó" là đất đai của Tổ quốc mình, con ạ!.

Lát nữa (bây giờ là 11 giờ 30 phút), đúng 14 giờ, Ba và mọi người trong Đoàn Công tác sẽ làm lễ thả hoa, tưởng niệm những người đã nằm xuống cách đây 20 năm trước.

Mọi người trong phòng ở của Ba trên tàu HQ 996 nói: Sẽ thả xuống biển, nơi những người đã nằm xuống đấy đủ cả bia, rượu, thuôc lá, ớt xanh, sách báo… vì “trần sao, âm vậy”.

Ba cũng làm như vậy với mọi người và Ba cũng muốn thả xuống đấy cả tâm tình, tấm lòng của Ba mẹ, của con và em, của ông bà, cùng bao nhiêu người khác nữa ở đất liền, để những người trai trẻ đã nằm xuống đấy không uổng phí, không chạnh lòng.

Con chưa hiểu thế nào là Tổ quốc!. Con còn chưa học đến những bài văn, thơ về Tổ quốc trong sách Tiếng Việt, nên chưa hiểu. Thế nhưng, có bao nhiêu người quyền cao chức trọng, giàu có, cũng chẳng hiểu được khái niệm Tổ quốc.

Mù mờ và hồn nhiên, nhiều người còn ví: Tổ quốc chỉ đơn giản là những đêm hát Karaoke, đám con trai – con gái ôm nhau gào lên bài hát cách mạng hoành tráng trong hơi bia rượu, thuốc lá ngoại sặc sụa…

Buồn cười thế đấy nhưng đó lại là sự thật.

Ba chợt nhận ra vậy bởi những ngày sống ở đất liền, Ba cứ cắm đầu vào nỗi lo cơm áo gạo tiền, nỗi lo làm tròn trách nhiệm, hoàn thành nhiệm vụ. Việc viết lách luôn nhìn thấy mặt trái của cuộc sống và cũng luôn thất vọng, cay nghiệt.

Hở ra một chút là thở dốc, là ngủ vùi để sang hôm sau lại sấp ngửa đi làm, lo toan bề bộn. Nhiều lúc, Ba cứ nghĩ mình là cái máy, chỉ biết làm việc, làm việc và làm việc.

Thế nhưng đến hôm nay, khi đã lênh đênh cả tuần trên biển. Mở mắt là thấy biển, quay sang 4 phía đều thấy biển.

Đi ngủ ban đêm, tỉnh giấc tưởng có con đạp chân ấm mềm vào mặt, ba cũng thấy biển.

Biển ngoài này xanh biếc hoà với trong vắt mây trời, mặn mòi mùi gió, Ba mới thấm thía thế nào là Tổ quốc.

Tổ quốc đơn giản chỉ là bình minh đỏ rực trên đảo Song Tử, nơi có cây đèn biển nhẫn nại cả đêm chớp mắt sáng cho những con tàu tỏ đường thông lối.

Tổ quốc là màu xanh của biển cả dưới mạn tàu, nơi có những con cá chuồn thấy động, bay vút lên đầu ngọn sóng như thể mơ ước bay cao, bay xa cùng cánh hải âu bàng bạc.

Tổ quốc là hòn đảo nhỏ, nơi có các chú bộ đội ở cùng quê mình, cùng giọng nói nhà mình, có vợ và em bé cũng ở gần nhà mình.

Tổ quốc là nơi có màu xanh của câu phong ba, cây bàng vuông, cây tra biển trổ hoa trắng tinh, toả màu hương ngan ngát…

Xa hơn nữa, ba thấy Tổ quốc của mình ở góc phố Hà Nội, Ba thường ngồi đánh vật với câu chữ đến khuya, bên 2 mặt trời nhỏ là con và em say nồng trong giấc ngủ thiên thân...

Tổ quốc gần gũi và thân thương, như thể những người gần nhất, cạnh bên nhất và bình dị nhất và không thể thiếu được, ở ngay bên mình, trong nhà mình con ạ!..

Ở đảo chìm Cô Lin này, qua mắt thường và qua độ zoom của ống kính máy ảnh Nhật (một cường quốc đã từng thua trận trên đất nước mình), Ba nhìn thấy chiếc tàu hiện đại của Trung Quốc đang ngang nhiên án ngữ trên biển.
 Chiếc tàu ấy lớn quá, hiện đại quá. Nhưng dù có lớn và hiện đại thế nào thì nó cũng giống như chiếc tàu buôn gắn đại bác của Tây Dương đã từng lừng lững tiến vào Sài Gòn, khiến bao nhiêu người Việt mình khiếp đảm về cái gọi là “văn minh phương Tây” khi ấy.

Ban đầu là sợ, nhưng rút cục, những người Việt vẫn đánh chìm những thứ của “văn minh phương Tây” kềnh càng ấy.

Ông cha mình là vậy, Tổ quốc mình là vậy và những người Việt chân chính của chúng ta là vậy. Hôm nay chúng ta có thể choáng ngợp, có thể ngập ngừng vì cái gọi là “định hướng”, đã ngăn cản ý nghĩ, việc làm của mỗi người.

Nhưng rút cục, cái cũ cũng sẽ bị đào thải để nhường chỗ cho những điều mới mẻ… Cái mới ấy, rất đơn giản là những gì Ba muốn ước ao và mong muốn, với con gái yêu và rất mực thông minh của Ba.

Không lâu nữa, con sẽ cùng bạn bè chế tạo ra những con tàu hiện đại hơn, hoành tráng hơn để đánh đuổi những con tàu đang chắn trước mặt Ba và đồng độ của Ba hôm nay.

Con và bạn bè sẽ khẳng định được vị thế Tổ quốc, để không phải quỵ luỵ, nhường nhịn và nuốt nước mắt khi những người con bị bắn, giết bằng lưỡi lê-đạn nhọn và ngắt quãng tuổi thanh xuân bằng dao găm oan nghiệt…

Máu nào chẳng đỏ, nước mắt nào chẳng trong.
Ba hiểu điều ấy, bởi đã gặp những người mẹ ở Quảng Bình, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Đà Nẵng... - Những người mẹ đã sinh ra các chú, bác đã nằm xuống ở ngay trên vùng biển Ba đang neo tàu.

Người mẹ nào chẳng xót xa, chẳng vật vã và không thể sống yên hàn khi đứa con mình rứt ruột đẻ ra lại hy sinh, khi vẫn còn qúa trẻ?

Càng không thể sống nổi khi những giọt máu đó chết vùi trong lòng biển vì đạn quân dụng, lưỡi lê, dao găm của những kẻ đang nhơn nhơn tươi cười trên màn hình tivi mỗi ngày đêm…

Thế mới biết nỗi đau câm lặng, nén lại là đáng kính phục, con ạ!.

Như Ba - Đã từng câm lặng trước ngôi nhà dột nát, hoang tàn của bà mẹ Quảng Bình có người con độc nhất hy sinh trên vùng biển Trường Sa linh thiêng, lặng gió này.

Những lúc ấy, Ba chỉ nghĩ: Con phải học tốt hơn, giỏi hơn để Ba mẹ không tủi hổ, để những người con đất Việt không xấu hổ ngậm đắng nuốt cay và con sẽ giỏi để làm tiếp những gì mà ba và bè bạn của Ba đã, đang và sẽ làm cho đất nước này; cho Tổ quốc này và cho vùng biển đảo thân thương nơi xa tít, thăm thẳm.

Con gái yêu của Ba nhé!..

Vùng biển Cô Lin - Gạc Ma
12 giờ 2 phút ngày 24/4/2008 (trước lúc làm lễ tưởng niệm 64 cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam hy sinh ngày 14/3/1988).

Thứ Bảy, 18 tháng 2, 2012

GỬI EM Ở CUỐI SÔNG HỒNG.


"GỬI EM Ở CUỐI SÔNG HỒNG" VÀ BÀI VIẾT KHÔNG ĐƯỢC ĐĂNG

Mai Thanh Hải - Đầu tháng 2/2009, mình vẫn làm Báo Đại Đoàn kết nên trước sự kiện kỷ niệm 30 năm ngày Trung Quốc xâm lược Việt Nam, cũng "vặt tóc bứt tai" nghĩ cách để vừa tuyên truyền, nhắc lại được sự kiện này, vừa thoát ải cấm đoán - sợ run cầm cập của từ cấp trên mình đến cấp trên của cấp trên mình.

Nghĩ mãi, rồi cũng có cách: Tiếp cận vấn đề dưới góc độ... Văn học nghệ thuật. Thời buổi này, nói chuyện văn thơ ngày chiến tranh - bao cấp với kiểu "ôn nghèo kể khổ", hồi ức ồi iếc hoàn cảnh sáng tác thì quá là vô hại, chả Tuyên giáo - Quản lý Báo chí - A25 nào nó quan tâm đâu.

Hôm sau, mình đề xuất loạt bài và được Ban Biên tập OK khiến mình tất tưởi về chỉ đạo Phóng viên, CTV làm ngay cho có chất lượng và kịp đăng trước ngày 17/2/2009.

Mà rất lạ nhé, anh chị em khi biết ý tưởng - cách triển khai chủ đề của mình, ai cũng háo hức, triển khai đi địa phương - cơ sở làm ngay, với mỗi tâm nguyện "Mình mà không nói, chả ai nhớ và biết ngày 17/2/1979!".

Riêng mình, thậm chí còn ngồi xe đò, lên tận Yên Bái gặp tác giả bài thơ "Gửi em ở cuối Sông Hồng" để phỏng vấn, tìm hiểu và viết bài...

Loạt bài hoàn tất, mình thực hiện Biên tập 1, chỉnh sửa ngon lành từ cấp Ban theo quy trình và chuyển lên Ban Biên tập ký duyệt đăng, trong lòng vẫn hơi lăn tăn về kết quả duyệt đăng, nhưng vẫn tự an ủi: "Đã được đồng ý thực hiện rồi. Vả lại Ban Biên tập ít nhất cũng có người qua bộ đội, đánh nhau ở biên giới phía Bắc rồi nên không hèn như chỗ khác đâu!".

Loạt bài gửi đi, mấy ngày liền hỏi kết quả, đều nhận được câu trả lời: "Đang xem! Đang xem!". Cả tuần trôi qua, mấy anh chị em viết bài đều sôi sùng sục.

Sáng hôm đó, họp giao ban số báo giữa Ban Biên tập và lãnh đạo các Ban Nội dung. Mình hỏi thẳng: "Loạt bài viết có đăng không? Nguyên nhân tại sao?".

Nghe câu hỏi của mình, ông Thư ký Tòa soạn Nguyễn Quốc Khánh (nay đã lên chức và đang giữ ghế Phó Tổng Biên tập) ấp úng như ngậm hột thị: "Bài hay lắm! Hay lắm! Ý nghĩa lắm! Ý nghĩa lắm!" và mắt đảo như bi, cười lòe xòe với mọi người: "Nhưng để lúc khác đăng vậy nhé!. Bây giờ nhạy cảm lắm!". Còn đồng chí Tổng Biên tập Đinh Đức Lập thì lúc ấy, hình như đang bận cắm cúi ghi chép gì đấy, vào sổ tay...  

Những ngày tháng 2 này, mình hay nhớ lại kỷ niệm về loạt bài không bao giờ được đăng tải trên báo và ý thức dân tộc cũng như trách nhiệm công dân - nhà báo của người đứng đầu cơ quan báo chí truyền thông.

Thế nhưng, rành mạch và rõ ràng hơn cả, mình nhớ tới lời thơ uất nghẹn của người lính trên tuyến đầu đánh trả quân xâm lược Trung Quốc, trong những ngày đầu nổ súng và về người viết những lời thơ ấy, bài thơ ấy đã góp phần làm nên lịch sử trong lòng những người Việt chân chính...

-------------------------------------
DƯƠNG SOÁI VÀ "GỬI EM Ở CUỐI SÔNG HỒNG"

Trong tuyển tập "Văn học dân tộc và miền núi" do Nhà Xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1998, bài thơ "Gửi em ở cuối sông Hồng" được giới thiệu cùng 87 bài thơ của các tác giả khác. Tuy nhiên, những dòng giới thiệu về tác giả rất ngắn ngủi: "Dương Soái, dân tộc Kinh; tên khai sinh: Dương Văn Soái; sinh năm 1950; quê quán: tỉnh Hà Nam"...

Tôi lên biên giới phía Bắc tìm hiểu mới biết, tác giả của "Gửi em ở cuối sông Hồng" hiện đang là Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Yên Bái.

Xin số điện thoại và gọi xin gặp, ông bỏ cuộc liên hoan, ngồi đợi tôi và rưng rưng kể lại những cảm xúc đã viết thành bài thơ, được Nhạc sĩ Thuận Yến phổ nhạc cho bài hát cùng tên, vẫn nguyên giá trị đến hôm nay.

Vần thơ từ trong lửa

Năm 1979, ông mới tròn 29 tuổi đời và đang công tác tại Đài Phát thanh - truyền hình Hoàng Liên Sơn (khi đó chưa tách 2 tỉnh Lào Cai và Yên Bái), sau khi đã phục vụ thời gian dài trong ngành địa chất và làm thơ, cộng tác với nhiều đầu báo, được khá nhiều giải thưởng về thơ ở cả tỉnh và Trung ương.

Hồi tưởng lại thời điểm tháng 2-1979, ông kể: Hồi đó đúng dịp sau Tết, ông mới đi công tác cả tháng trời tại các xã của mấy huyện vùng cao Văn Chấn. Mù Căng Chải, Nghĩa Lộ...

Mới về đến cơ quan vài ngày và viết xong bài phản ánh về công tác chuẩn bị vào vụ lúa Đông xuân, thì sáng 17/2/1979, ông nhận được tin quân Trung Quốc tấn công đồng loạt 6 tỉnh biên giới và ác liệt nhất là khu vực Lào Cai.

Cấp trên yêu cầu: "Phải có ngay bài phản ánh về tình hình" khiến lãnh đạo Đài cuống quýt tìm và rút cục phải gọi "cậu phóng viên trẻ, khoẻ, đi miền núi xa xôi - gian khổ nhiều hơn đi đường nhựa" lên động viên, giao nhiệm vụ "lên ngay biên giới".

Nhận lệnh, ông xách balô, đi nhờ xe bộ đội ngược lên Lào Cai. Buổi chiều 17/2 lên đường, tờ mờ sáng ngày 18/2/1979, ông đã có mặt tại huyện lỵ Cam Đường, Lào Cai (bấy giờ là Hoàng Liên Sơn).

Vừa chân ướt chân ráo, ông đã "dính đủ" trận pháo của đối phương và chứng kiến cảnh 1 chiến sĩ Cảnh sát bảo vệ Trạm thu phát sóng của Đài Phát thanh bị thương nặng, máu loang đỏ cả nền đất, mấy giẻ xương sườn gãy vụn.

Hết trận pháo, ông đi bộ lên phía súng nổ và ngược dòng người sơ tán lên cây số 4. Ông cùng một số anh em bộ đội tìm ra tuyến trên và chứng kiến cảnh người dân gồng gánh tài sản, ngơ ngác - gào khóc tìm người thân con cái, trên mặt ai cũng biểu lộ sự ngỡ ngàng, không hiểu nổi những gì vừa mới và đang xảy ra ở mảnh đất họ đã "chôn nhau, cắt rốn"..


Đi đến khu vực Cty Dược thị xã Lào Cai, cách biên giới chừng 2 km, bộ đội ta ngăn lại, không cho ông đi tiếp dù có trình bày là phóng viên. Không thể quay lui, ông tìm đến Sở Chỉ huy Tiền phương (SCH) của mặt trận Hoàng Liên Sơn, lúc đó đang đóng tạm tại khu vực Cam Đường, thị xã Lào Cai để... xin vào vùng chiến sự.

Dẫu là "người nhà" nhưng ông vẫn không được phép vào khu vực chiến sự, chỉ được ở lại SCH lấy thông tin, viết bài. Cũng tại đây, ông đều đặn chuyển các tin bài về cho Đài tỉnh kịp thời phát sóng.

Loanh quanh ở SCH, cứ thấy bộ đội, dân quân từ mặt trận về tập trung, ông lại sán đến hỏi han, chi chép làm tư liệu viết bài.

"Kỷ niệm tôi không thể nào quên là gặp những chiến sĩ C117, Công an Vũ trang bảo vệ mục tiêu Thị uỷ rút về SCH thay quân!" - Nhà thơ Dương Soái nghẹn ngào: "Người ở tuyến dưới lên cứ tưởng đồng đội mình hy sinh hết. Khi gặp nhau cứ ôm nhau khóc, mặc cho máu từ các vết thương chảy ròng ròng!".

Các chiến sĩ Công an Vũ trang nói với ông: "Anh là Nhà báo, nói hộ với người thân của là chúng em vẫn sống và đang bảo vệ đất của mình!".

Những ngày ở SCH, nhà thơ Dương Soái đã chứng kiến cảnh các đơn vị bộ đội thay quân, đưa người bị thương về tuyến sau, đưa người còn khoẻ lên tuyến trước và các chiến sĩ tranh thủ gặp gỡ, nhắn nhủ ngay trước khi di chuyển.

Cũng chính ông thành người được bộ đội gửi gắm, nhắn nhủ nhiều nhất. Ai cũng nhờ ông gửi thư, đánh điện về báo tin cho gia đình: Người nhờ chuyển phong thư đã viết sẵn; người lại "bắt" ông ngồi đợi để xin mảnh giấy, cây bút ghi vài chữ về cho gia đình; có người quá vội, chỉ đưa ông mảnh giấy ghi địa chỉ người thân và nhờ "Anh cứ viết báo tin là em vẫn còn sống, vẫn chiến đấu!"; người nói sơ qua nội dung thư và nhờ ông... viết báo tin.

Rút cục, sau mấy ngày ở SCH, những lá thư bộ đội nhờ ông gửi hộ, được đựng đầy chặt chiếc túi 3 đồng, mậu dịch bán lúc bấy giờ.


Hôm rời Lào Cai về Yên Bái, trong lúc ngồi đợi tàu tại sân ga Phố Lu, ông mang thư của bộ đội ra sắp xếp lại: Thư đã có tem, địa chỉ cụ thể; chưa có tem; chưa có phong bì; chưa có nội dung...

Khi đã "phân loại" hàng trăm lá thư, ông ngỡ ngàng bởi hầu hết bộ đội ta đều quê ở các tỉnh nằm dọc theo bờ sông Hồng (Yên Bái, Phú Thọ, Hà Tây, Hà Nội, Thái Bình, Hà Nam...) và đa số thư đều gửi cho vợ, người yêu ở những địa phương nằm dọc sông Hồng.

Ngỡ ngàng và liên hệ đến tình hình chiến sự đầu thắng 2/1979, cảm nhận cái giá rét - gió mùa Đông Bắc hiện tại, nhớ màu nước sông Hồng quanh năm đỏ rực phù sa và tháng 2 đúng mùa con nước... ông quặn lòng nhớ tới vợ con ở Duy Tiên, Hà Nam cũng chung tâm trạng như hàng vạn, hàng triệu người vợ - người mẹ - người yêu khác, đang mong ngóng, lo lắng tin của chồng, con, người yêu nơi biên g...

Xúc động, Dương Soái ngồi bệt xuống sân ga Phố Lu viết bài thơ "Gửi em ở cuối sông Hồng" chỉ trong đúng 2 tiếng đồng hồ. "Vừa viết, nước mắt tôi vừa chảy ra giàn giụa!" - Ông đỏ hoe mắt và ngước mắt nhìn cây đào núi nở hồng rực ngoài cửa sổ.

Giữa đường hành quâ
Nhà thơ Dương Soái kể: Về thị xã Yên Bái, ông dành nửa ngày để ra bưu điện cây số 5 gửi điện, viết thư hộ lính và mua tem, phong bì "hoàn thiện" những lá thư chưa đủ "quy chuẩn". Hôm đó, thùng thư bưu điện cây số 5 đầy chật thư bộ đội do ông gửi và cô nhân viên bưu điện đã phải gom thêm bao tải..

Bài thơ "Gửi em ở cuối sông Hồng" của Dương Soái mãi thời gian sau mới được đăng tải bởi ông lại tất tả ngược lên biên giới phía Bắc làm nhiệm vụ của phóng viên chiến trường.

Ngay sau khi được gửi đi, bài thơ đã được in ở rất nhiều báo, tạp chí và các tuyển tập thơ văn khác và trở thành bài thơ... truyền thống với bộ đội ta lúc đó.

Tuy nhiên, mãi đến năm 1980, bài thơ mới trở nên nổi tiếng sau khi được Nhạc sĩ Thuận Yến phổ nhạc với cái tên "Gửi em ở cuối sông Hồng". Dương Soái cũng chỉ biết "đứa con tinh thần" của mình... thành danh khi nghe lời nhắn của 1 người bạn: "Bài thơ được nhạc sĩ Thuận Yến phổ nhạc, Đài Tiếng nói Việt Nam vừa phát! Hay lắm!".

Vài năm sau, Dương Soái mới gặp Nhạc sĩ Thuận Yến tại nhà Giám đốc nhà máy Thủy điện Thác Bà, Yên Bái nhân dịp Nhạc sĩ lên công tác.

Nhà thơ rất xúc động khi được biết: Vừa lên đến Yên Bái, Nhạc sĩ Thuận Yến đã hỏi ngay địa chỉ của Dương Soái để tìm gặp cảm ơn và nói lời tri kỉ...

Mặc dù, Nhạc sĩ Thuận Yến đã không giữ nguyên một số câu chữ trong bài thơ của Dương Soái, nhưng vẫn giữ nguyên được hồn của bài thơ và thổi bùng vào trong đó sức sống mãnh liệt. Chẳng thế mà bài thơ - bài hát đó vẫn sống cho đến bây giờ.

Trong lời bình bài thơ "Gửi em ở cuối sông Hồng", tác giả Ngô Vĩnh Bình đã viết: "Tứ của bài thơ không có gì mới, nhưng lời thơ lại rất mới, rất thời sự và thật Việt Nam. Bài thơ cũng nói về nỗi nhớ của người ở đầu sông với người ở cuối sông nhưng là nỗi nhớ của người lính đang chiến đấu bảo vệ biên cương với người thương nơi quê nhà. Nỗi nhớ, niềm thương được biểu hiện bình dị, nhưng nỗi nhớ, niềm thương ấy cũng thật lãng mạn... Bài thơ đến với đông đảo bạn đọc không chỉ ở sự bình dị mà còn được chắp thêm cánh bởi giàu nhạc điệu và giàu chất dân ca".


------------------------------------------
GỬI EM Ở CUỐI SÔNG HỒNG

(Dương Soái)

Anh ở Lào Cai

Nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt

Tháng Hai, mùa này con nước

Lắng phù sa in bóng đôi bờ


Biết em năm ngóng, tháng chờ

Cứ chiều chiều ra sông gánh nước

Nên ngày ngày cùng bạn bè lên chốt

Anh lại xuống sông Hồng cho thoả nỗi em mong


Đài báo gió mùa, em thương ở đầu sông

Đỉnh đồi cao chiến hào anh gặp rét

Biết mùa màng đồng quê chưa cấy hết

Tay em ngập dưới bùn, lúa có thẳng hàng không?


Giá chúng mình còn cái thuở dung dăng...

Anh thả lá thuyền xuôi về dưới ấy

Em ra sông chắc em sẽ thấy

Chỉ nỗi nhớ chúng mình đủ ấm mọi mùa đông.

Nhưng thơ ngây đâu còn ở chúng mình

Khi Tổ quốc trao anh lên tuyến đầu chặn giặc

Khi biên cương trong anh đã trở thành máu thịt

Đạn lên nòng anh giữ trọn nguồn sông


Nỗi nhớ cho em chưa viết được đôi dòng

Đạn quân thù bỗng cuồng điên vào thị xã

Xe tăng thù nghiến mặt sông êm ả

Nhịp cầu thù chặt đứt chờ mong


Bão lửa này mang sức mạnh hờn căm

Phá cầu thù, xé vụn xe tăng giặc

Giữa dòng sông nghìn xác thù ngã gục

Máu giặc loang ố cả một vùng


Thì hỡi em yêu ở cuối sông Hồng

Nếu gặp dòng sông ngàu lên sắc đỏ

Là niềm thương anh gửi về em đó

Qua màu nước sông Hồng, em hiểu chiến công anh
Lào Cai, 1979